À còn đây nữa nèTàu chở khí hóa lỏng (Liquid Gas Carriers)Tàu chở khí hoá lỏng thuộc nhóm tàu vận tải chở khí hóa lỏng trong tàu, thực chất là các bình chịu
áp lực cao trong điều kiện nhiệt độ hạ thấp đến mức cần thiết. Ngoài tàu chở khí gốc dầu còn có tàu
chở khí tự nhiên. Kiểu thứ nhất dành cho tàu chở khí từ công nghiệp dầu khí, sau hóa lỏng (liquefied
petroleum gas – LPG), kiểu sau dành chở khí tự nhiên hóa lỏng (liquefied natural gas – LNG).
LPG là tên gọi có xuất xứ từ công nghiệp dầu – khí, chỉ chung cho nhóm khí trong công nghiệp
này là hydrocarbon , chủ yếu gồm propane và butane và cả khí pha trộn của chúng. Khí này có thể hóa
lỏng và vận chuyển chuyển theo một trong ba cách:
• Dưới áp suất thường và nhiệt độ môi trường,
• Làm lạnh hoàn toàn đến nhiệt độ sôi, từ -30°C đến -48°C,
• Làm lạnh bán phần đến nhiệt độ xác định và áp lực cao.
Một số khí khác như ammonia, propylen và
ethylene cũng có thể chở bằng tàu tàu chở khí kiểu này.
LNG là khí tự nhiên được loại bỏ lưu huỳnh và carbon dioxide. Cần thiết làm lạnh khí đến nhiệt độ
sôi của nó, vào khoảng -165°C. Áp lực giữ khí hoá lỏng này có thể chỉ bằng hoặc gần như áp suất khí
quyển. Trong nhóm này vận chuyển methane lỏng đòi hỏi phải thỏa mãn những yêu cầu riêng của nó.
Đặc tính của methane như chúng ta đã biết, có áp lực giới hạn 45,6 kG/cm2 và nhiệt độ giới hạn –82,5°C,
điều này có nghĩa methane chỉ có thể hóa lỏng dưới áp lực đủ lớn, nhiệt độ vô cùng thấp.
Tàu chở khí kiểu đầu được viết bằng tiếng Anh Liquefied Petroleum Gas Ship được phân loại theo
kết cấu các khoang chở hàng.
• Khoang hàng chịu áp lực (fully pressured tanks). Dung tích các tàu này thường không lớn
hơn 2.000m3 . Tàu dùng chở chủ yếu propane, butane chứa trong các bình trụ , từ hai đến 6 bình, đặt
hoàn toàn hoặc không hoàn toàn dưới boong. Các bình này được thiết kế để chịu áp lực đến 17,5 kG/cm2.
Áp lực này gần trùng với với áp lực bốc hơi của propane tại nhiệt độ 45°C.
• Khoang hàng nén bán phần (một nửa) hoặc làm lạnh bán phần (semi-pressured or semirefrigerated
tanks). Dung tích tàu nhóm này lên đến 5.000m3. Các bình trên tàu được thiết kế chịu được
nhiệt độ -5°C và áp lực lớn nhất khoảng 8 kG/cm2. Phía ngoài bình được cách nhiệt. Hàng trong tàu được
làm lạnh và bảo quản tại áp lực tính toán.
• Khoang lạnh (fully-refrigerated tanks). Dung tích tàu nhóm thứ ba này có thể đạt 10.000 m3
đến 100.000 m3. Tàu dung tích nhỏ trong nhóm thường là tàu dùng chở nhiều mặt hàng, tàu lớn thuộc
tàu chuyên dụng cho một mặt hàng. Tàu chở khí tự nhiên (Liquefied Natural Gas Ship) được thiết kế và
chế tạo theo những chuẩn nhất định. Trong thời gian qua những nhà đóng tàu đã đăng ký hơn 20 sáng
chế cho thiết kế tàu LNG, phần đông trong đó thuộc về nhóm kết cấu màng mỏng (membrane category)
hoặc kết cấu độc lập (independent category). Theo khuyến cáo của tổ chức hàng hải quốc tế IMO ghi
trong Internatinal Gas Carrier Code trên tàu chở khí có thể sử dụng các kết cấu dạng sau.
• Két liền hay bình khí liền (integral tanks), theo nghĩa các khoang hàng tàu vận tải có kết cấu
liền thân tàu chúng ta đã quen trong các chương trước, được dùng chở LPG tại áp lực khí quyển hoặc
gần như vậy.
• Két màng mỏng (membrane tanks) thuộc kết cấu tàu, làm từ các lớp vật liệu (gọi là membrane)
tựa trên các tấm cách nhiệt, còn các tấm cách nhiệt đó là chi tiết thuộc kết cấu thân tàu. Két màng mỏng
chủ yếu dùng cho tàu LNG.
Tàu chở khí hóa lỏng và các kiểu dáng đặc trưng trình bày tại hình 2.56. Trên hình giới thiệu tám
tàu đã đưa vào sử dụng trong thập niên sáu mươi, thiết kế và đóng tại: Germany (a), Nhật bản (b, c, h),
Pháp (d), Na-uy (f), Thụy điển (g). Chiều dài các tàu nêu tại đây như sau: tàu cỡ nhỏ “Ultrgas” L =
22,6m, hình 2.56a; tàu “L.P. Maru No 2”, hình 2.56b, L = 47m; tàu “Nordphone” và “Petrogas”, hình
2.56d, 2.56e L = 100m; tàu “Mundagas Brasilia”, hình 2.56f, L = 119,5m; tàu “Paul Endakott”, hình
2.56g, L = 167,6m.
Hình 2.63Kết cấu khoang chở hàng cho tàu chở khí hóa lỏng thực hiện theo cách trình bày như hình 2.64 sau. Hình 2.64a trình bày sơ đồ mặt cắt ngang tàu thuộc nhóm “gas tanker”, hình 2.64b giới thiệu mặt cắt ngang cũng tàu nhóm này song mang tên gọi đặc trưng bằng tiếng Anh “gas carrier”, ứng dụng trình bày tại 2.63b, c, d. Có thể phân biệt kỹ chi tiết hơn vài tên gọi gắn liền với tàu chở khí hóa lỏng này. Hình 2.64c giới thiệu két cầu mang tên Kvaerner-Moss, ứng dụng của nó thể hiện trên sơ đồ 2.63f, hình 2.64d trình bày hệ thống “membrane” dùng rất nhiều trong nhóm.
Hình 2.64Bố trí tàu chở khí methane hóa lỏng trình bày tại hình 2.65. Kết cấu đặc trưng tàu nhóm này được
giới thiệu tại hình 2.66.
Hình 2.65. Tàu chở khí methane hóa lỏng
Hình 2.66. Kết cấu đặc trưng tàu chở khí methane hoá lỏng