Tàu chiến hay
chiến hạm,
chiến thuyền, là loại
tàu được đóng để dùng cho chiến đấu. Tàu chiến thường được đóng theo cách hoàn toàn khác với
tàu chở hàng. Ngoài việc được trang bị vũ khí, tàu chiến được thiết kế để chịu thiệt hại và thường chạy nhanh hơn và di chuyển linh động hơn tàu chở hàng. Không như tàu chờ hàng, tàu chiến thường chỉ chở vũ khí, đạn dược và quân nhu cho thủ thủy đoàn của chính nó. Tàu chiến thường thuộc về một lực lượng
hải quân, tuy có lúc chúng đã từng được các cá nhân hoặc công ty điều khiển.
Trong
chiến tranh, ranh giới để phân biệt tàu chiến và tàu hàng không rõ ràng. Trong chiến tranh các tàu chở hàng thường được vũ trang và được sử dụng như các tàu chiến pha, ví dụ các tàu
nhóm Q của
Thế chiến thứ nhất và
tàu viễn dương vũ trang của
Thế chiến thứ hai. Trong
thế kỷ 17, có nhóm tàu chở hàng thường phục vụ không thường xuyên, không hiếm khi lên đến một nửa hạm đội. Trước
thế kỷ 19 khi thiếu các
tàu buồm thường có số lượng lớn các tàu thường vũ trang như các tàu
ga-lê-ôn. Tàu chiến cũng có thể làm nhiệm vụ chở quân hay chở hàng tiếp viện như
Hải quân Pháp trong
thế kỷ 18 hay
Hải quân Nhật trong Thế chiến thứ hai.
Mục lục
[ẩn]
- 1 Phát triển tàu chiến
- 1.1 Thời đại tàu mái chèo
- 1.2 Thời đại tàu buồm
- 1.3 Thép, hơi nước và đạn nổ
- 1.4 Thời kỳ Dreadnought
- 1.5 Thế chiến thứ hai
- 1.6 Phát triển tàu ngầm
- 1.7 Tàu sân bay phát triển
- 1.8 Tàu chiến hiện đại
- 2 Một số loại tàu chiến
|
//
[sửa] Phát triển tàu chiến[sửa] Thời đại tàu mái chèo Tàu chiến của người
Assyrian, đây là một tàu
bireme với mũi nhọn. 700 TCN
Các thời đại cổ, như
Cổ Ba Tư,
Cổ Hy Lạp,
Cổ La Mã tàu chiến thường là các loại tàu chèo tay như tàu
bireme,
trireme và
quinquereme. Đây là các tàu dài, nhọn, được đẩy bởi các hàng mái chèo và người chèo. Các tàu chèo tay cổ này được thiết kế để đánh chìm tàu địch bằng cách đâm thẳng vào hoặc tiếp cận tàu địch rồi thủy thủ nhảy sang giáp lá cà. Việc phát triển các máy
bắn đá vào
thế kỷ 4 TCN và tinh hoa kỹ thuật sau đó của nó cho phép chế tạo hạm đội đầu tiên dùng máy bắn đá, hải pháo, vào đầu thời Cổ Hy Lạp. Với sự hợp nhất chính trị khu vực
Địa Trung Hải vào khoảng
2-
thế kỷ 1 TCN thì hải pháo đó dần bị loại bỏ,
trận Actium là trận đánh lớn cuối cùng hải pháo máy bắn đá được dùng đến.
Từ thời
Cổ Muộn và
Trung Cổ, cho đến
thế kỷ 16, vũ khí hải quân là của những người đi trên tàu chiến mang theo và sử dụng như mũi nhọn tàu, cung thủ trong thủy thủ đoàn, rất nhiều thứ bắn đi khác nhau như cung, tên, nỏ, nỏ chữ thập hạng nặng đặt cố định trên tường thành tàu. Cuộc chiến của hải quân có những hành động hàng đầu là đâm thủng và áp sát nên không cần vũ khí chuyên dụng đặc biệt.
[sửa] Thời đại tàu buồm Tranh
Bắn pháo của
Willem van der Velde, vẽ
tàu chiến tuyến Hà Lan thế kỷ 17
Pháo hải quân được tái phát triển vào
thế kỷ 14, tuy nhiên, việc sử dụng
súng chậm trễ. Pháo chỉ được dùng như vũ khí trên biển khi tốc độ nạp đạn cải thiện đủ để tái sử dụng trong một trận đánh. Việc dùng nhiều pháo dẫn đến mất chỗ cho những người chèo thuyền.
Thuyền buồm man-of-war (người của chiến tranh) là loại thuyền chạy chủ yếu bằng buồm nổi trội trong
thế kỷ 16.
Giữa
thế kỷ 17, tàu chiến phát triển theo hướng tăng cường số lượng pháo mạn,
chiến thuật hải quân tàu buồm hướng đến việc đưa hỏa lực mỗi tàu đến chiến tuyến của trận đánh, kiểu tàu man-of-war phát triển thành
tàu chiến tuyến (
ship of the line). Trong
thế kỷ 18, các tàu
frai-ghết và
xà-lúp vũ trang quá nhỏ để đứng ở chiến tuyến; được dùng để hộ tống tàu buôn, trinh sát tìm tàu địch và phong tỏa bờ biển.
[sửa] Thép, hơi nước và đạn nổ The French ironclad
La Gloire under sail
Vào
thế kỷ 19, cuộc cách mạng kỹ thuật đem đến những thay đổi to lớn về đẩy, cấu trúc và vũ khí tàu chiến. Động cơ hơi nước dùng vào cuối nửa đầu thế kỷ 19, ban đầu cho các tàu bán vũ trang. Chiến tranh Crưm đem đến kích thích mạnh cho phát triển súng. Việc dưa vào sử dụng đạn trái phá sớm dẫn đến đưa vào sử dụng sắt, rồi thép làm giáp cho mạn, boong của tàu chiến lớn. Các tàu chiến bọc thép đầu tiên,
Gloire của
Pháp và
HMS Warrior của
Anh đã làm các tàu gỗ lạc hậu.
Kim loại sớm thay thế gỗ làm vật liệu chính đóng tàu.
Từ
thập niên 1850,
tàu chiến tuyến được thay bởi
thiết giáp hạm chạy hơi nước, tàu
frai-ghết được thay bởi các
tàu tuần dương chạy hơi nước.
Vũ khí có các
ổ súng quay và
tháp pháo làm
súng không lệ thuộc vào hướng của tàu, thay một số lớn
súng nhỏ bằng số nhỏ
súng lớn mang theo. Nhờ tiến bộ của
súng, kiểu
pháo đập đất howitzer cổ điển được thay thế bằng lựu pháo bắn đạn trái phá tầm xa.
Henri-Joseph Paixhans áp dụng tiếm bộ đó lên tầu và cho ra đời hải pháo.
Chiến tranh Crưn hải pháo này được áp dụng, khẳng định vị trí của các
Tầu tuần dương kiểu mới đa năng. Nội chiến Mỹ khẳng định vị trí của
thiết giáp hạm trong đối kháng bằng
súng.
Kết thúc thế kỷ 19 là sự phát triển
ngư lôi và
tàu phóng lôi.
Tàu phóng lôi nhỏ chạy nhanh là một đối trọng với hạm đội
thiết giáp hạm đắt đỏ.
Ngư lôi và
tầu phóng lôi được
người Nga phát triển và sử dụng thành công trong chiến tranh Crưn.
[sửa] Thời kỳ DreadnoughtBài chi tiết: Thiết giáp hạm#Thời kỳ Dreadnought HMS Dreadnought 1906
Một cuộc cách mạng tàu chiến mới,
thời kỳ Dreadnought bắt đầu rất nhanh theo
thế kỷ 20, khi mà Anh hạ thủy con tàu
Dreadnought năm 1906. Tàu có hỏa lực toàn súng to. Tàu được đẩy bằng turbine hơi nước, tàu nặng hơn, nhanh hơn, to hơn tất cả các tàu đã có, những tàu mà nó đã làm cho lạc hậu. Các tàu tương tự lập tức được đóng theo ở nước khác.
Anh cũng phát triển các tàu tuần dương chiến đấu. Tàu này mang súng như thiết giáp hạm, cỡ thân như vậy. Tàu tuần dương chiến đấu hy sinh giáp để đổi lấy tốc độ. Tàu tuần dương chiến đấu nhanh chóng cho các tàu tuần dương khác thành lạc hậu. Những tàu tuần dương chiến đấu dễ tổn thương hơn thiết giáp hạm cùng thời.
Tàu khu trục phát triển cùng thời với các tàu Dreadnought. Tàu khu trục to hơn và mang súng to hơn tàu phóng lôi, tàu khu trục bảo vệ tàu chính của hạm đội trước các mối đe dọa từ tàu phóng lôi.
[sửa] Thế chiến thứ haiBuổi đầu
Thế chiến thư hai,
Đức và Anh lại một lần nữa trội lên như hai lực lượng mạnh nhất
Đại Tây Dương. Đức bị hạn chế bởi
Hòa ước Versailles, chỉ cho phép họ có một ít tàu nổi nhỏ. Nhưng bằng một cách đặt tên thông minh "
thiết giáp hạm bỏ túi" đã đánh lừa Anh và Pháp. Họ có những tàu lớn gây ngạc nhiên như
Admiral Graf Spee,
Scharnhorst,
Gneisenau đều đều tập kích đường vận chuyển
Đồng Minh.
Hai chiến hạm đỉnh cao của Đức là
Bismarck và
Tirpitz, được coi như hai vũ khí đáng sợ nhát của
Hải quân Đức. Bismarck chìm nhanh chóng sau một loạt các trận đánh bắc Đại Tây Dương. Tirpitz bị vây hãm trước khi bị
Không quân Hoàng gia Anh đánh quỵ.
Hải quân Hoàng gia Anh một lần nữa trở thành mạnh nhất
châu Âu sau 1943.
[sửa] Phát triển tàu ngầmTàu ngầm thực tế được phát triển cuối thế kỷ 19. Nhưng chỉ đến khi hoàn thiện
ngư lôi thì tàu ngầm mới trở thành mỗi nguy thật sự (và có tác dụng thực tế). Cuối
Thế chiến thứ nhất tàu ngầm thể hiện năng lực tiềm tàng. Trong
Thế chiến thứ hai các tàu ngầm của Hải quân Đức làm Anh khổ sở vì thiếu thốn, tấn công đánh chìm một số lượng lớn tàu ven biển
Mỹ.
Việc xuất hiện các tàu ngầm thúc đẩy phát triển các tàu hộ tống chống ngầm cuối Thế chiến thứ nhất, như là các tàu khu trục hộ tống. Rắc rối, nhiều từ ngữ còn thừa kế từ các tàu nhỏ thời tàu buồm như là
tàu hộ tống, tàu
frai-ghết và
xà-lúp.
[sửa] Tàu sân bay phát triểnLực lượng chủ yéu của hải quân chuyển sang
tàu sân bay. Trận dánh đầu tiên là
trận Taranto, sau đó là
trận Trân Châu Cảng, tàu sân bay đã chứng tỏ khả năng tấn công liên tục vào tàu dịch ngoài khoảng quan sát và tầm của các tàu mặt nước khác. Hết Thế chiến thứ hai, tàu sân bay trở thành lực lượng trội của hải quân.
[sửa] Tàu chiến hiện đại Tàu frai-ghết của
Hải quân Hoàng gia Úc,
HMAS AnzacTàu chiến hiện đại được chia thành 6 nhóm:
tàu sân bay,
tàu tuần dương,
tàu khu trục,
tàu hộ tống,
tàu ngầm,
tàu đổ bộ.
Thiết giáp hạm lập thành nhóm thứ 7, nhưng ngày nay thiết giáp hạm không còn phục vụ trong hải quân thế giới. Chỉ còn Mỹ giữ một ít thiết giáp hạm lớp Iowa vẫn còn như một lực lượng tác chiến, nhìn chung, thiết giáp hạm không thể quay lại như là lực lượng tàu mạnh nhất. Các tàu khu trục hứa hẹn sẽ nổi trội như các tàu mạnh nhất ở hầu hết lực lượng hải quân trên biển.
Tuy nhiên, khó phân biệt rõ ràng các đặc điểm và biểu hiện của tàu tuần dương, tàu khu trục và tàu frai-ghết, gianh giới giữa chúng mờ nhạt và chỉ có ý nghĩa ngôn ngữ. Hầu hết các tàu đều trang bị với 3 nhiệm vụ: chống tàu nổi, tàu ngầm và phòng không. Mã hiệu của lớp tàu không chính xác lâu và đổi chỗ trên cây phân loại. Tất cả các cỡ tàu đều phát triển sau khi định nghĩa đầu thế kỷ 20.
Hầu hết các hải quân đều có tàu vũ trang nhẹ, như tàu rà mìn, tàu tuần tra, tàu tuần tra xa bờ.
[sửa] Một số loại tàu chiếnHệ thống phân loại tàu chiến chạy buồm Hải quân Hoàng gia Anh
|
Tàu chiến tuyến|
|
Tầu frai-ghết|
|
Không phân hạng|
- Xà-lúp vũ trang
- Thuyền hai cột buồm mang pháo
- ca nô
|
|
- Tàu đổ bộ (Amphibious assault ship), tàu có thể đi được ở vùng nước nông hay cạn, dùng chở quan đổ bộ. Loại tàu được ưa chuộng nhất là tàu dùng đệm không khí.
- Tàu sân bay, tàu chiến có sân bay và máy bay cánh cố định.
- Tàu tuần dương (Cruiser), loại chiến hạm nhỏ nhất trong số các chiến hạm độc lập trên đại dương, đi được dài ngày trên đại dương, kiểm soát vùng biển, bắn pháo lên bờ. Sức diệt tàu địch không cao như tàu sân bay hay thiết giáp hạm.
- Tàu tuần dương hạng nặng (Heavy cruiser), loại chiến hạm nặng đóng ở Anh sau năm 1915 đến Thế chiến thứ hai, từ này hay được người Anh chỉ một số tàu các nước khác. Tàu tăng cường giáp và pháo, giá rẻ so với thiết giáp hạm.
- Tàu tuần dương diệt tàu (Battle cruiser), một loại tàu chiến trước Thế chiến thứ hai, mang súng lớn nòng dài và giáp dầy, nằm giữa tàu tuần dương và thiết giáp hạm.
- Thiết giáp hạm bỏ túi (Pocket battleships), một loại tàu chiến trước Thế chiến thứ hai, mang súng lớn nòng dài và giáp dầy, nằm giữa tàu tuần dương và thiết giáp hạm. Tàu này mạnh hơn tàu tuần dương diệt tàu, thỉnh thoảng người Anh gọi là tàu tuần dương hạng nặng.
- Thiết giáp hạm, một loại tàu chiến rất lớn, có các ổ pháo quay lớn mang đài bác nòng dài bắn đạn xuyên rất lớn, giáp dầy. Chức năng diệt tàu chiến mạnh của đối phương. Các loại tàu trên xếp theo tứ tự từ tàu tuần dương đến thiết giáp hạm: tăng khả năng diệt tàu.
- Tàu ga-lê (Bireme, Galley), loại tàu cổ từ thế kỷ 18 về trước, có hai hàng mái chèo và mũi cứng, tàu có tốc độ cao, đi được trong vùng nước nông, ngược gió... rất cơ động. Tàu chứng tỏ sức mạnh trong Đại chiến Bắc Âu.
- Tàu ga-lê-ôn, loại tàu chiến chủ lực từ thế kỷ 16 về trước ở châu Âu và Địa Trung Hải. Vừa có buồn vừa có chèo, chiến đấu giáp lá cà. Sau được thay bằng ship of the line dùng súng.
- Tàu ga-liz, loại tàu chiến cổ, có ba cột buồn và hai hàng mái chèo. Có thể đi xa bằng buồm và đối kháng mạnh bằng chèo.
- Tàu chỉ huy hay kỳ hạm (Capital ship, flag ship). Kỳ hạm trước dây chỉ loại tàu có đoạn trên của cột buồn rất cao, trên có nhiều cờ mầu sắc khác nhau, dùng để ra lệnh cho hạm đội. Sau này dùng với nghĩa chỉ huy hạm đội. en:Capital ship nhỏ hơn, chỉ huy nhóm tàu. Thường là một thiết giáp hạm với các tàu tuần dương, tàu khu trục...
- Hải phòng hạm (Frigate) loại tàu chiến nhỏ, cơ động, giữa pháo hạm và tàu khu trục. Từ này dùng cho nhiều loại tàu thay đổi theo thời gian. Ngày nay chức năng của nó như tàu tuần dương, nhưng chạy nhanh hơn và mang vũ khí nhỏ hơn, có thể coi là tàu tuần dương chạy nhanh.
- Pháo hạm hay tàu pháo (Gun ship), tàu chở nhiều pháo bắn lên bờ.
- Tàu khu trục (Destroyer, ban đầu là torpedo boat destroyer (tàu diệt tàu phóng lôi), sau đọc ngắn gọn là destroyer. Tàu chạy nhanh, cơ động, ăn lái, trước đây dùng pháo bắn nhanh. Ngày nay tàu diệt rất nhiều mục tiêu khác nhau trên mặt, dưới nước và trên không, đảm bảo an toàn cho các tàu khác. Ngày nay tàu này to như hoặc hơn tàu tuần dương, chức năng là cảnh giới cho hạm đội.
- Thời kỳ Dreadnought (1906), thời tất cả đều to (all big), chỉ thời kỳ thiết giáp hạm dùng pháo nòng dài rất lớn và giáp dầy.
- Quinquereme, loại tàu chiến thượng cổ châu Âu, hồi La Mã mỗi mạn có 3 hàng mái chèo. Hàng trreen cùng 3 người 1 chèo, hàng giữa 2, hàng dưới 1. Nô nệ chèo bị xích.
- Trireme, hậu duệ của Quinquereme, tốc độ cao, có mũi cứng đâm vào tàu địch, thủy binh nhảy sang giáp lá cà.
- Tàu chiến tuyến (Ship of the line), thế kỷ 17-19, hồi đó tầm súng rất thấp, các tàu dàn hàng bắn nhau, đây là các tàu diệt tàu đứng trên hàng đầu.
- Tàu quét mìn
- Tàu rà mìn
- lớp Monitor, loại thiết giáp hạm đầu tiên, thời Nội chiến Mỹ.
- USS Monitor, chiếc dầu tiên của Lớp Monitor.
- tàu Monitor, pháo hạm nhỏ nhưng mang pháo lớn bắn lên bờ. Đi được ở các vùng nước nông.
- Tàu phóng lôi (Torpedo boat), tàu phóng ngư lôi, nhỏ, tốc độ cao, có súng bắn nhanh.
- Xà-lúp (Sloop), trước đây là tàu tuần tra nhỏ một buồm châu Âu, nay chỉ các tàu nhỏ.
- Xà-lan
- Thông báo hạm, (Commerce raider)
- Tàu bọc thép, (Ironclad), tàu gỗ bọc thép.
- Tầu hộ tống (Corvette)
- Ca-nô
- Thuyền phóng hỏa (Fireship), thuyền chứa các chất dễ cháy, đốt rồi lao về phía tầu địch.
- Tàu Viking dài (Longship), tầu đột kích của quân Viking.
- Man of war, Tàu buồm chiến đấu chủ lực thế kỷ 16-18.
- Tàu ngầm